Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Hướng dẫn Nhiếp Ảnh Căn bản

CANON 60D có thể chỉnh sửa ảnh chụp ngay trên máy?

Bạn có thể dùng những bộ lọc: Grainy B/W (tạo nhiễu và thành hình trắng đen), Soft focus (thay đổi mức độ mềm ảnh) , Toy camera effect (Có thể tạo ra các thiên hướng màu khác nhau), Miniature effec (Tạo hiệu ứng hậu cảnh sâu hơn). 
1) Chọn chế độ chỉnh ảnh:
Chọn tab thứ 5. Chọn mục Creative Filter rồi bấm nút <Set> Những hình chụp trong thẻ nhớ sẽ hiện trên màn hình.
2) Chọn 1 hình ảnh mà bạn muốn chỉnh.
3) Chọn 1 bộ lọc: Bấm nút <set> trên tấm hình bạn chọn, để mở ra danh sách các bộ lọc bên dưới màn hình. Bấm phím để chọn một bộ lọc, rồi bấm nút <Set> Tấm ảnh sẽ thay đổi theo bộ lọc mà bạn chọn.
4) Chỉnh hiệu ứng: bấm phím hiệu chỉnh.
5) Lưu những thay đổi thành ảnh mới. Thoát ra bạn bấm nút Menu.

P/S:
- Những bộ lọc trên máy không thể dùng trên hình ảnh có định dạng M RAW và S RAW.
- Ảnh lưu bằng định dạng RAW + JPEG thì chỉ có ảnh dạng RAW được áp dụng bộ lọc màu. Sau đó được lưu lại bằng tập tin khác với định dạng file JPEG.
- Tuy nhiên với những file M RAW + JPEG và SRAW + JPEG, thì bộ lọc chỉ áp dụng trên hình ảnh có file JPEG mà thôi.
(Nguồn : http://www.vnphoto.net/forums/showthread.php?t=86332)

Cách chụp trắng đen trên canon :
Picture style. Cái mục mà có cái hình giống giống thế này: . Chọn picture style la Monochrome (Hình thế này )









Hướng dẫn sử dụng Canon 60D tiếng Việt (Video + PDF)


CANON 60D Hướng dẫn sử dụng Canon 60D tiếng Việt (Video + PDF)
Nhân dịp “tậu” máy mới, mình cũng sưu tầm luôn một số clip hướng dẩn sử dụng dòng máy Canon 60Dcho bạn nào cần (trong đó có mình). Hy vọng qua những tài liệu tham khảo này, các bạn sẽ phần nào làm chủ được chiếc máy DSLR của mình…
Video hướng dẫn sử dụng Canon 60D :









Tài liệu hướng dẫn sử dụng Canon 60D tiếng Việt : http://www.mayanhjp.com/ImgUpload/2013/HDN-Canon-EOS-60D.pdf


Bài viết liên quan :

Tổng quan về cân bằng trắng trong máy ảnh

Máy ảnh số hiện tại ngoài tính năng cân bằng trắng tự động thì còn có nhiều tính năng cân bằng trắng có sẵn như: ánh sáng ngoài trời, mây mù, bóng râm, ánh sáng đèn điện và thiết lập cân bằng trắng bằng tay dựa trên thông số nhiệt độ màu. Những người nghiệp dư thường không biết hoặc không quan tâm mấy đến cân bằng trắng tùy chỉnh bằng tay. Máy ảnh mặc định đặt sẵn chế độ cân bằng trắng tự động, nghĩa là cảm biến của máy ảnh sẽ tự động tính toán nhiệt độ màu từ nguồn sáng thu vào nhưng đôi khi không chính xác vì được gán thông thường dải nhiệt độ màu từ 3000 – 7000K (nếu khác ngưỡng đó thì máy không hiển thị đúng, ngay cả trong ngưỡng đó máy chưa chắc đã hiển thị đúng vì màu sắc còn ảnh hưởng bởi môi trường, sự hấp thụ, phản chiếu các vật xung quanh).
Vì vậy khi đã hiểu được các thông số cơ bản thì bạn nên chủ động thiết lập bằng tay việc cân bằng trắng để thể hiện đúng hơn ý đồ về bức ảnh.
Nhiệt độ màu là gì?
Nhiệt độ màu được định nghĩa "là nhiệt độ của vật đen tuyệt đối mà bức xạ của nó cùng màu với bức xạ của Vonfram" được tính theo thang độ Kevin (kí hiệu là K) thể hiện độ sáng của vật. Trong đó màu đen có giá trị 0 độ K.
Ánh sáng tự nhiên
Ánh sáng nhân tạo
Trời xanh có nắng
6500
Đèn sợi đốt - Tungsten
2650 - 3200
Trong bóng râm trời nắng
7100
Đèn compact - Fluorescent
4200 - 4800
Giữa trưa trời nắng
5500 - 5800
Đèn ánh sáng trắng
6000 - 6300
Bình minh / Hoàng hôn
2000 - 2300
Đèn flash
3350 - 5400
Trời có mây
6000 - 6300
Diêm cháy
1500 - 1700
Trời xanh trong
10000
Nến
1850 - 2000
Một giờ sau bình minh
3500 - 4000


Bên trên là bảng nhiệt độ màu Kelvin ở những điều kiện ánh sáng khác nhau. Các giá trị này chỉ mang tính tương đối vì có nhiều yếu tố tác động đến nhiệt độ màu, ví dụ tuổi thọ của bóng đèn, sự tán xạ của các vật thể xung quanh… Bạn có thể dựa vào các giá trị này để tham khảo, thiết lập cân bằng trắng bằng tay theo hướng dẫn bên dưới.
Hướng dẫn cân bằng trắng trên máy ảnh Canon EOS 60D
Lưu ý: các máy ảnh cũng có cách chỉnh cân bằng trắng tương tự, cần tham khảo trong sách hướng dẫn sử dụng
White balance mode
Các chế độ cân bằng trắng trong máy
Auto White Balance AWB – Auto White Balance – Cân bằng trắng tự động: là chế độ mặc định của máy mà máy ảnh tính toán để đưa ra thông số phù hợp với điều kiện chụp. Các dòng máy ảnh chuyên nghiệp hiện nay có thể tính toán khá chính xác để cân bằng trắng, tuy nhiên bạn không nên quá tin tưởng vào chế độ này hoặc trong những trường hợp đặc biệt, bạn cân chỉnh bằng tay thì sẽ chính xác hơn.
Daylight Daylight - trời nắng: có biểu tượng hình mặt trời, là chế độ được sử dụng dưới ánh sáng ban ngày, nhiệt độ màu được gán ở khoảng 5200K.
Shade Shade – bóng râm: có biểu tượng phần tối bên cạnh hình ngôi nhà, nhiệt độ màu được gán ở khoảng 7000K. Khi chụp trong bóng râm, nếu để chế độ này ảnh sẽ trở nên ấm áp hơn.
Cloudy Cloudy – mây: biểu tượng hình đám mây. Nhiệt độ màu ở EOS 60D gán chế độ này ở khoảng 6000K.
Tungsten Tungsten light – Đèn sợi đốt: Chế độ này gán nhiệt độ màu ở khoảng 5500K hay được sử dụng trong nhà dưới ánh sáng của đèn sợi đốt hoặc ánh sáng sân khấu. Ở chế độ này máy sẽ làm cho màu sắc của bức ảnh có cảm giác dịu mắt hơn.
 White fluorescent light – ánh sáng trắng của bóng đèn compact: Nhiệt độ màu được gán ở khoảng 4000K làm cho ánh sáng trở nên ấm áp hơn.
Flash Flash – khi chụp ảnh với chế độ này kết hợp với flash thì bức ảnh sẽ thiên hơn về gam màu nóng, tạo bức ảnh ấm áp hơn so với flash thông thường với chế độ cân bằng trắng tự động.
Custom Custom – tùy chỉnh cân bằng trắng: bằng cách sử dụng màu mẫu (được coi là trắng) đã chụp ảnh trước đó trong điều kiện ánh sáng cần chụp để cài làm cân bằng trắng cho bức ảnh sau với kích hoạt chế độ Custom White Balance. Đó có thể là tờ giấy bạn mang theo hoặc màu trắng trong khung hình bạn muốn chụp. Trong trường hợp khung hình bạn muốn chụp có quá nhiều màu sắc lộn xộn, hoặc không có màu trắng khiến cho máy ảnh bị ngơ ngơ không cân bằng trắng chính xác được (chụp lên bức ảnh bị biến đổi màu nóng hoặc lạnh hơn bình thường) thì ta có thể dùng một cái card màu nâu 18% để làm màu mẫu. Miếng card này được bán nhiều ở các cửa hàng phụ kiện nhiếp ảnh với giá khoảng 50.000 đồng. Trong điều kiện chụp, bạn đặt card để ánh sáng chiếu trực tiếp vào nó mà ko bị đổ bóng của vật hoặc môi trường xung quanh, dùng máy ảnh ngắm đầy khung hình vào tấm card này và chụp để máy lưu giữ màu trung tính này và nạp vào Custom WB. Với EOS 60D, để sử dụng cân bằng trắng từ ảnh mẫu trước đó bạn vào Menu > chọn Tab cài đặt thứ hai > chọn Custom White balance > màn hình hiện ảnh chụp gần nhất (có thể lựa chọn ảnh khác) và dựa vào cân bằng trắng của ảnh này để áp dụng cho ảnh tiếp theo bằng cách ấn nút Set > màn hình hiện thông báo "Use WB data from this image for Custom WB" > OK.
K - Kelvin Temp K – Kelvin: là tính năng bạn có thể tùy chỉnh tăng giảm nhiệt độ màu theo nhiệt độ Kelvin gán cho máy bằng cách xoay vòng chỉnh.
Hiệu ứng khi thay đổi cân bằng trắng:
Auto White balance
Custom WB
Chế độ AWB
Chế độ Custom với màu mẫu là màu đỏ


Chế độ Custom với màu mẫu là màu xanh lá cây dịu
Chế độ AWB
 Chế độ Custom với màu mẫu là màu xanh lá cây dịu
Chế độ AWB


Chế độ K = 3500
Chế độ K = 10000
Chế độ K = 3500
Chế độ K = 10000


Chế độ AWB
Chế độ Shade
Chế độ AWB
 Chế độ Shade


(Nguồn : http://vnreview.vn/tu-van-anh-so/-/view_content/content/138140)



Nắm vững cách sử dụng máy ảnh số thông qua các chế độ chụp



Khi sử dụng máy ảnh kỹ thuật số, có những ký tự đại diện cho chế độ chụp như B, A, P, Tv...nếu chưa nắm rõ có thể bạn sẽ lúng túng và khó khăn trong việc sử dụng, bài viết liệt kê một số chế độ chụp giúp người dùng tham khảo để điều khiển tốt hơn chiếc camera của mình

Khái niệm APERTURE : Khẩu độ hay độ mở màn trập (ống kính)

Trong ống kính máy ảnh có một cơ quan gọi là màn trập, cơ quan này bao gồm nhiều tấm thép xếp chồng lên nhau để điều tiết độ mở lớn hay nhỏ của ống kính nhằm cho phép ánh sáng vào máy nhiều hay ít, vai trò như mí mắt của người.




Giá trị của khẩu độ được đo bằng trị số f (có thể thể hiện theo ba cách như f/8, F8 hay 1:8), trị số f càng nhỏ ví dụ f/2, f/2,8… thì độ mở màn trập càng lớn, ánh sáng càng tiếp xúc nhiều hơn với phim, sensor máy ảnh.

Dãy số trị số của khẩu độ f/2, f/2.8, f/4, f/5.6,f/8,f/11….có ý nghĩa là cứ tăng lên một giá trị trong dãy thì màn trập mở nhỏ hơn và lượng ánh sáng đi qua ống kính sẽ giảm đi một nửa.

1. APERTURE PRIORITY: Chế độ chụp ưu tiên khẩu độ.


Ký hiệu thường dùng trên vòng xoay chỉnh chế độ là A (Nikon,Panasonic,Lumix..) hoặc là Av (Canon,Pentax…)

Khi thiết lập máy ảnh ở A hay Av mode người dùng tự chọn độ mở màn trập, thông số tốc độ màn trập (Shutter speed) do máy kiểm soát. Chế độ này đặc biệt quan trọng khi người muốn kiểm soát khoảng nét hay còn gọi là chiều sâu của bức ảnh.

Ví dụ:
Trong chụp ảnh phong cảnh thiết lập A, Av mode điều chỉnh độ mở nhỏ f/11, f/16 để ảnh có chiều sâu, có độ sắc nét của các chi tiết tiền cảnh lẫn hậu cảnh.



Trong chụp ảnh chân dung,ảnh chụp cận cảnh macro thiết lập A, Av mode, điều chỉnh độ mở lớn f/2, f/2.8 để làm mờ, nhòe đi cảnh nền phía sau giúp đối tượng chụp nổi bật hơn lên.



Khái niệm SHUTTER SPEED: Tốc độ trập

Đây là trị số tính bằng giây quy định khoảng thời gian cửa trập mở ra để lấy sáng, càng mở lâu thì ánh sáng vào tiếp xúc với phim hay sensor càng nhiều và ngược lại.

Dãy trị số của tốc độ trập ....1/4s, 1/8s,1/15s,1/30s,1/60s... có ý nghĩa cứ lên một cấp thì cửa trập đóng lại nhanh hơn và lượng ánh sáng đi qua ống kính giảm đi một nửa, và như vậy với tốc độ đóng cửa trập càng nhanh thì ảnh càng tăng nguy cơ bị thiếu sáng và ngược lại.

2. SHUTTER SPEED PRIORITY MODE: Chế độ chụp ưu tiên tốc độ trập


Ký hiệu thường dùng trên vòng xoay chỉnh chế độ là Tv = Time value hay S = Shutter

Việc có thể chọn lựa tốc độ đóng cửa trập giúp bạn chụp được những tấm hình chuyển động mà không bị mờ nét chẳng hạn dùng tốc độ đóng nhanh 1/500s, 1/2000s để bắt đứng sự chuyển động của nước, khiến có cảm giác như dòng nước bị đông cứng lại thấy rõ từng hạt nước


Hình minh họa: Dùng đá ném xuống nước và thiết lập Tv = 1/400s thấy rõ các hạt của tia nước bắn lên không trung

Theo chiều ngược lại, dùng tốc độ trập chậm trong kỹ thuật chụp phơi sáng có thể tạo ra hiệu ứng làm nhòe chuyển động khiến vật thể chuyển động tạo vệt mờ.


Hình minh họa dùng tốc độ Tv = 1/2s khiến dòng nước chảy nhòe đi trông như một bức tranh vẽ.

3. PROGRAM : Chế độ chụp chương trình

Ký hiệu trên vòng chỉnh chế độ là P.



Ở chế độ này máy ảnh sẽ đảm nhận xử lý phần tốc độ trập (shutter) và khẩu độ trập (aperture) đã nêu ở trên. Khi chỉnh về P mode, bạn có thể thiết lập những thông số như độ cân bằng trắng, tắt hay mở đèn Flash, sử dụng độ nhạy sáng ISO ở mức nào, phần phơi sáng thông qua hai trị số f và s để cho máy tự chọn (auto).

Chế độ chụp này rất tốt cho người mới bắt đầu chụp, bạn để P mode và không cần phải lo lắng đủ sáng hay không để tập trung vào chủ đề, bố cục,nó đặc biệt hữu dụng khi bạn chụp cảnh ở ngoài trời với ánh sáng tốt.

Trong những trường hợp ánh sáng không được tốt lắm, có khả năng ảnh của bạn sẽ bị mờ  khi chụp ở P mode vì máy ảnh tự động chọn chụp với tốc độ chậm, khi đó bạn phải chụp với chân máy (tripod) còn nếu không có chân máy thì bạn chỉnh ISO lên cao (tầm 400) kết hợp với bật đèn Flash khi chụp, chú ý là sử dụng Flash không nên đứng quá xa (tối đa 4m) so với đối tượng chụp.

4. MANUAL : Chế độ chụp chỉnh tay 

Đây là chế độ cuối trong bộ tứ 4 chế độ chính của máy ảnh P-S-A-M, trên vòng xoay chỉnh có ký hiệu là M



Khi bạn đã hiểu và nắm được A mode và S mode thì bạn đã hoàn toàn có thể chỉnh về Manual Mode để chụp trong những trường hợp A,S mode không đáp ứng được mong muốn.

Manual mode cho phép người chụp hoàn toàn tự do chỉnh các thông số kỹ thuật, trị số s, f, lấy net, chỉnh ISO, cân bằng trắng, thiết lập Flash on hay off....chính vì thế nó không dành cho người mới đến với nhiếp ảnh.



Tấm ảnh hoa minh họa được chụp trong bối cảnh hoa được chiếu sáng bởi ánh sáng mặt trời nhưng hậu cảnh nền lại là một vùng bóng râm. Nếu chụp ở chế độ bán tự động, máy ảnh nhiều khả năng sẽ ưu tiên vùng sáng cho hậu cảnh thay vì chủ thể chính, nếu bạn để khẩu độ mở nhỏ để giảm sáng thì ảnh ko đạt yêu cầu, lúc này bạn phải cần có Manual mode để chỉnh tay tất cả nhằm đạt tấm ảnh như ý.Ngoài các chế độ chụp chính, chúng ta còn có thể bắt gặp những chế độ chụp khác tùy theo sự sáng tạo, sự phân loại riêng của các nhà sản xuất máy ảnh (Sony,Nikon,Canon...) trong đó:

ISO PRIORITY : chụp ưu tiên độ nhạy sáng :

khái niệm ISO: ISO là cách mà bộ cảm biến của máy ảnh nhạy cảm với ánh sáng, giá trị thường gặp 100,200,400,800,1600...



Giá trị ISO càng thấp, hình ảnh chi tiết hơn nhưng cảm biến ít nhạy cảm hơn với ánh sáng và ngược lại. Với ánh sáng ban ngày ngoài trời bạn đặt ISO thấp 100,200 để hình ảnh chất lượng hơn, trời u ám, mờ tối chụp với ISO 400,800, chụp ban đêm phải để ISO ở tầm 1600 mới đủ sáng các chi tiết dù hình ảnh tăng khả năng bị nhiễu, hạt. Nếu muốn giữ chất lượng hình bạn nên cố gắng để ISO thấp + kết hợp Flash để chụp trong đêm nhưng Flash thường gây lóe sáng không mong muốn trên chủ đề.


Một tấm ảnh chụp hồ cá thủy cung trong điều kiện ánh sáng yếu, tác giả không dùng Flash và để ISO ở 1600

Ký hiệu của ISO priority mode là Sv trên máy ảnh của Pentax, Sv mode cho bạn chọn trước độ nhạy sáng ISO, các thông số tốc độ, khẩu độ do máy auto. Còn thiết lập P mode thì máy quyết định cả 3 thông số.

Trên máy khác như Nikon, Canon Sv mode chính là Program mode + chỉnh tay độ nhạy sáng ISO.

CHẾ ĐỘ CHỤP TAv

Chế độ chụp này cho phép bạn chỉnh tay 2 thông số tốc độ và khẩu độ, máy sẽ tự động dò tìm một mức ISO phù hợp, chế độ này tìm thấy trên một số máy ảnh Pentax. Ở các máy khác bạn sử dụng TAv mode bằng cách chọn Manual mode sau đó chọn thiết lập ISO tự động.



TAv mode hữu ích hơn Manual mode trong một số tình huống nhất định, chẳng hạn bạn chụp sân khấu, sân được chiếu sáng bởi nhiều nguồn sáng khác nhau, ánh sáng thay đổi liên tục và bạn cần chụp hàng loạt tấm hình, ISO tự động theo từng thời điểm chụp trong TAv mode sẽ giúp bạn xử lý trường hợp này tốt hơn.

CHẾ ĐỘ CHỤP DEP

Khái niệm DEP: DEP = DEPth of field (Độ sâu trường ảnh) còn gọi là DOF

Mỗi ống kính máy ảnh chỉ có khả năng chụp được vật thể một cách sắc nét trong một vùng nhất định, vùng rõ nét này gọi là độ sâu trường



Trong hình minh họa, hình ảnh con bướm bay quá gần ống kính hay quá xa sẽ bị mờ vì nó không nằm trong "Độ sâu trường" của ống kính máy ảnh này.

Độ sâu trường phụ thuộc máy ảnh và cách chọn khẩu độ, khoảng lấy nét (là khoảng cách từ ống kính đến vật cần lấy nét = chủ thể chụp).

Trị số khẩu độ càng nhỏ f/2, f/2.8 ống kính mở càng rộng, khoảng lấy nét càng ngắn thì vùng rõ nét (độ sâu trường) càng nhỏ (nông), trong hình minh họa mở khẩu độ lớn --> vùng rõ nét ngắn tập trung hoàn toàn lên con vật khiến hậu cảnh xung quanh mờ nhòe giúp người xem ảnh tập trung vào chủ thể chính.


Khi khẩu độ ống kính mở càng nhỏ ( tri số lớn f.11, f/16) thì vùng rõ nét DOF càng rộng thích hợp cho chụp ảnh phong cảnh, hình minh họa có DOF lớn nên rõ nét các chi tiết cả ở gần lẫn ở xa khiến tấm ảnh có chiều sâu.



DEP mode là chế độ thấy trên một số dòng máy của Canon: khi bạn thiết lập ở DEP mode, bạn hướng ổng kính vào chủ thể gần nhất muốn đặt trong vùng rõ nét (DOF) và nhấn nhẹ nút chụp sau đó hướng ống kính vào chủ thể xa nhất muốn đặt trong DOF rồi nhấn tiếp nửa còn lại của nút chụp --> máy tính sẽ tính toán muốn có vùng rõ nét này thì trị số khẩu độ phải đặt ở bao nhiêu.

CHẾ ĐỘ CHỤP A-DEP


Canon còn cung cấp thêm một chế độ chụp nữa gọi là A-DEP: Chế độ này cho phép bạn để máy ảnh tự động chọn vùng rõ nét (DOF) cho chủ đề chụp để hỗ trợ những tay máy yếu kỹ thuật, tuy nhiên do cách xác định quá đơn giản của máy, chế độ này hầu như không giúp được gì cho người chụp.

CHẾ ĐỘ CHỤP C1, C2, C3...

* Đây là chế độ Custom cho bạn lưu sẵn các thông số kỹ thuật vào để xài mỗi khi cần chẳng hạn bạn lập:

C1 = Av mode, f/11, ISO 100,... dành cho chụp phong cảnh
C2 = S mode, 1/200s, ISO200,...lập sẵn cho chụp cảnh thể thao

Tùy máy bạn có thể có thêm những thiết lập cấp nhỏ hơn nữa ví dụ như lập sẵn C2.1 để chụp thể thao trong nhà, C2.2 chụp thể thao ngoài trời..v.v...

Để tạo thuận lợi cho người sử dụng, các hãng sản xuất cố gắng tiêu chuẩn hóa các thiết lập thông số kỹ thuật cho từng tình huống giúp những người chụp không cần hiểu các khái niệm như DOF, Aperture, Shutter,...vẫn có thể chụp được những tấm ảnh như mong muốn.
 CHẾ ÐỘ CHỤP AUTO HOÀN TOÀN: Automatic mode



Ký hiệu là ô hình vuông màu xanh, hình máy ảnh, hoặc chữ Auto, đây là chế độ dành cho người mới biết đến nhiếp ảnh, luôn có trên thể loại máy ngắm và chụp (compact) và được đa số người sử dụng máy chọn lựa, máy tự động đoán bạn đang chụp cái gì để lấy nét, chỉnh khẩu độ, tốc độ, độ nhạy sáng, cân bằng trắng,flash...và bạn chỉ cần bấm nút. Nhìn chung với chế độ này bạn chỉ có thể dùng tạm khi chưa nắm bắt kỹ thuật, chứ khó lòng giúp bạn có những tấm ảnh ấn tượng được.

SCENE MODE :


Mỗi hãng sản xuất lại chia nhỏ Auto mode thành hàng loạt mode nhỏ hơn, sự tính toán, điều chỉnh các thông số kỹ thuật trong các chế độ có thể không giống nhau giữa các nhãn hiệu máy, đem lại những kết quả khác nhau.
Marco mode  : Chụp cận cảnh, thích hợp khi chụp hoa, côn trùng, máy có thể sẽ cố gắng tính toán để mở khẩu độ lớn.

Flower  : Một số máy có thể có chế độ auto riêng cho chụp hoa

Landscape mode  : Chỉnh về chế độ này khi muốn chụp phong cảnh, máy thường làm tốt nhiệm vụ nếu trời quang đãng, ánh sáng đủ.

Sport mode  : Chụp ảnh thể thao, giảm mờ nhòe khi đối tượng chụp di chuyển, máy thường tìm cách nâng tốc độ chụp lên, chụp nhanh để bắt đứng hình lại.

Night mode  : Chụp cảnh đêm, máy có thể tính toán đẩy ISO lên cao, mở rộng khẩu độ hay giãn thời gian đóng màn trập (chụp tốc độ chậm)...

Night portrait  : Chụp người ban đêm, máy có thể đẩy flash on và cố gắng nhận dạng và loại bỏ hiện tượng mắt đỏ


Night landscape  : Chụp phong cảnh ban đêm.

Fireworks  : Chụp pháo hoa, máy thường xử lý auto kém trong những chế độ khó chụp như chụp cảnh pháo hoa.

Beach  : Cảnh biển, thường được máy hiểu là ánh sáng nhiều, chói nắng.

Snow  : Trời nhiều tuyết, sáng trắng.

Và còn rất nhiều chế độ chụp được lập sẵn khác như tự chụp mình , chụp văn bản , chụp trong nhàbảo tàng , chụp ngược sáng  , trẻ em tiệc tùng chân dung ... nói chung chụp người , vật nuôi, hoa cỏ, ...máy thường cố gắng xác định vật thể cần lấy nét, đặt vật ấy vào vùng rõ nét, loại bỏ mắt đỏ và cố gắng tính toán để điều tiết ánh sáng phù hợp ( tăng giảm ISO, bật hay tắt Flash)...chụp cảnh thường chọn lấy một khung cảnh chuẩn mực để dựa vào. dù thế nào thì độ thông minh của máy ảnh vẫn còn nhiều giới hạn nên bạn không nên quá ỷ lại vào những chế độ tự động này, đặc biệt trong những tình huống không phải là một tình huống chuẩn.
Tham khảo tiếng Anh :      Camera Controls
Learn the Basics of Your Digital SLR Camera
1

Camera Controls

Camera Controls Front View
Camera Controls Back View
2

Image Sensor

CMOS and CCD Image Sensors
Since the dawn of photography, cameras have captured and stored images on glass plates or on film. Today, digital cameras capture the images on a nifty piece of technology – the image sensor. The image sensor is made up of millions of light sensitive photodiodes set on a grid, where each photodiode records a tiny portion of the image as a numeric value that corresponds to a specific brightness level, which is then used to create your image. Image sensors, whether they are CCD or CMOS, vary from camera to camera but they’re basically the same, and the megapixel count shouldn’t be a priority in the decision-making process when buying a camera. Why? Because the size of the sensor is actually more important that the number of megapixels.
3

Camera Lens

Camera Lens Types
A lens is an optical component made out of glass, high quality plastic, or ceramic, which captures the light and assembles it on a point of focus at the matte screen passing through a condensing lens inside the camera. If you are looking for ease of handling, you can go for point-and-shoot cameras with fixed lenses. However if you are concerned about picture quality, you should invest in a digital SLR (DSLR) camera with interchangeable lenses. Interchangeable lenses allow you to have much more control of your images, and to be far more creative than you can be with a point-and-shoot camera. All in all, DSLR cameras produce a more professional photograph.
4

Camera Modes

Camera Mode Dial
DSLR cameras are equipped with a variety of shooting modes that increase the automatic decision making of the camera. These cameras, thankfully, have semi-automatic and manual modes too, which put the control back in your hands for more technical and creative applications. In PROGRAM mode, the camera sets the exposure, but the user can adjust the white balance, ISO, focusing and metering. There are two semi-automatic modes: 1) Shutter Priority (Tv) is where the user sets the shutter speed and the camera determines the aperture. Shutter Priority allows the user to control how “the action” is captured. 2) Aperture Priority (Av) where the user selects the aperture and the camera determines the shutter speed. Aperture Priority allows the user to control the depth-of-field.
5

Built-in Flash

built-in and Pop-up Camera Flash
A built-in flash is provided with every digital camera. The camera’s computer determines need for flash according to the exposure metering, focusing and zoom systems. On compact cameras the built-in flash is triggered to go off in perfect sync with the shutter, but it’s hard to control the timing and intensity of the flash. This can result in washed-out photos. DSLRs have pop-up flashes that can be controlled in various ways to be in-sync with the shutter or drag behind the shutter; in addition the intensity can be manipulated in accordance to the overall light of the scene. DSLR cameras allow for more pleasing and artistic use of the flash.
6

Viewing System

Optical and Electronic Viewing Systems
Most digital cameras have two viewing systems - the optical viewfinder and the electronic viewfinder. While both systems show you what the lens sees, the electronic viewfinder can tell you other things about the nature of your digital image. One area where the electronic viewfinder is superior is in determining color balance. The electronic viewfinder can show where the highlights are overexposing (and if you’ll need to compensate). What is great is that you’ll see this in real-time. The optical viewfinder puts you directly inside the mechanical world of the camera, and tends to perhaps give you a better sense of the composition because you’re seeing exactly what the lens is seeing, not an electronic approximation.

Các chế độ phụ khác:

Chế độ Burst : Chế độ chụp ảnh liên tiếp nhiều tấm (multi-shot) dùng trong một số trường hợp như ghi nhận một sự kiện đang diễn ra rất nhanh, chụp ảnh thể thao, chụp trẻ em (trẻ rất khó đứng im nên thường phải dùng Burst mode để chụp liên tiếp nhằm chọn ra tấm ưng ý nhất)



Chế độ Autofocus : Chụp tự động lấy nét ký hiệu AF



Vài điểm phân biệt các chế độ lấy nét tự động:

Lấy nét tự động liên tục (continuous): Máy liên tục rà soát để lấy nét và bất cứ lúc nào bạn chụp nhấn nút chụp cũng được.

Lấy nét tự động đơn (single - one shot): Khi chụp nhấn nhẹ nút chụp nửa đường để lấy nét, lấy nét xong nhấn hẳn nút chụp xuống để chụp, tuy tiết kiệm pin hơn nhưng có thể không kịp chụp trong một số tình huống cần bắt lấy khoảnh khắc thật nhanh.

Chế độ lấy nét AI Servo: Chế độ lấy nét dành cho chụp chủ thể đang chuyển động liên tục, máy tự động căn khoảng cách lấy nét và lấy nét đúng vào thời điểm bấm chụp



Chế độ lấy nét AI Focus: Chế độ lấy nét thông minh thụ động, máy lấy nét cho chủ thể tĩnh nhưng khi chủ thể bất ngờ di chuyển thì máy chuyển sang AI Servo để lấy nét

Ngoài ra tùy dòng máy mà còn có một số chế độ như chụp toàn cảnh Panorama, Flash tự động, quay phim, chụp đen trắng, chụp hiệu ứng..v.v.

Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh



Tất tần tật những gì cần chuẩn bị trước khi chụp một tấm hình.

Các bạn thân mến, chuyên đề máy ảnh số trên GenK đã hoạt động được hơn hai tháng. Đến giờ phút này, bạn không thể chỉ "đọc cho vui" mà cần phải theo dõi loạt bài viết đã lên trang trước đó mới có thể hiểu toàn bộ những kiến thức được đề cập tới tại bài viết ngày hôm nay. Xem lại tại đây và xin bạn đọc hãy nhớ rằng, chuyên đề máy ảnh số không chỉ dành riêng cho những ai đang sở hữu máy ảnh DSLR. Ngay cả nếu bạn chỉ đang sở hữu một chiếc máy ảnh du lịch đi chăng nữa, loạt bài viết của chúng tôi cũng sẽ trang bị cho bạn những kiến thức nhằm tận dụng tối đa khả năng của nó.

Trong bài viết Nhiếp ảnh cơ bản: Các bước chụp một tấm hình, chúng ta có đề cập đến 4 bước bao gồm: Bật máy, Chọn chế độ chụp phù hợp, Lấy nét và chụp, Xem lại và xóa. Tuy nhiên trên thực tế, nếu lựa chọn một trong số các chế độ chụp nâng cao (xem lại bài viết Các chế độ chụp thường gặp trên máy ảnh) chúng ta còn đồng thời phải thiết lập một số các thông số khác bởi khi đó máy ảnh sẽ dành cho chúng ta rất nhiều “đất” để sáng tạo và làm chủ chiếc máy. Việc thiết lập các thông số này có ý nghĩa như nhau trên cả máy ảnh ống kính rời lẫn máy ảnh du lịch.

1.      Thiết lập giá trị phơi sáng (EV)
Với 3 chế độ chụp P, A và S, người chụp cần xác lập giá trị EV mong muốn từ trước khi chụp (xem lại bài viết Các thông số cơ bản trong nhiếp ảnh: Sự phơi sáng để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của giá trị EV này) để tạo ra tấm hình với độ phơi sáng như mong muốn. Mặc định EV=0 được coi là “đủ sáng” Các giá trị dương (+) sẽ điều chỉnh máy cho lượng sáng nhiều hơn với thực tế, giá trị âm (-) thì ngược lại. Tuy nhiên không phải lúc nào giá trị EV=0 mặc định cũng cho ánh sáng đúng với thực tế những gì mắt người nhìn thấy, nguyên nhân có thể do tính năng đo sáng làm việc sai, hoặc người dùng thiết lập cách thức đo sáng không chính xác (xem phần 2 trong bài viết này). Trong nhiều trường hợp, giá trị này sẽ cần phải giảm xuống (tương tự như mắt người khi nhìn giữa buổi trưa nắng gắt phải nheo lại và lấy bàn tay che phía trên lông mày) hoặc tăng lên (tương tự như khi nhìn ban đêm, ta thường phải cố mở mắt to ra để nhìn được rõ hơn).
Lúc này máy ảnh sẽ tự tính toán các thông số còn lại (tốc độ chụp, độ mở ống kính, độ nhạy sáng ISO) để hình chụp ra đạt đúng giá trị EV đã thiết lập.
Vì là một thông số vô cùng quan trọng, nên giá trị EV thường được ưu ái đặt trên một nút bấm riêng để người dùng có thể truy cập nhanh thay vì phải vào sâu trong Menu trên màn hình. Nút bấm này thường được ký hiệu như sau:
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 1
Nút EV (khoanh màu đỏ) trên máy ảnh ống kính rời.
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 2
Nút EV (khoanh màu đỏ) trên máy ảnh du lịch.
2.      Thiết lập cách thức đo sáng (Metering)
Mỗi vật thể riêng rẽ trong cùng một tấm hình đều mang các giá trị sáng khác nhau. Ví dụ giá trị sáng của một chiếc bóng đèn điện chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều lần giá trị sáng của một con đom đóm. Thiết lập Metering là thiết lập cách thức mà máy ảnh sẽ ghi nhận từng giá trị sáng riêng rẽ này, rồi tổng hợp chúng lại thành một giá trị phơi sáng chung cho cả tấm hình sẽ chụp ra. Tùy theo thể loại ảnh mà chúng ta sẽ sử dụng các cách thức đo sáng khác nhau.
+ Matrix metering hay Evaluative/ Pattern metering: đo sáng kiểu ma trận. Máy ghi nhận giá trị sáng tại tất cả các vùng sáng tối trong khung hình, rồi sau đó tính toán để đưa ra một giá trị phơi sáng cân bằng nhất, đảm bảo mọi vật thể tại mọi vị trí trong khung hình đều ít nhiều nhận được một lượng ánh sáng chấp nhận được. Cách thức đo sáng này thường được sử dụng trong thể loại ảnh phong cảnh.
+Spot metering: đo sáng điểm. Máy ghi nhận và tái hiện chính xác giá trị phơi sáng tại điểm được lấy nét (tạm gọi là giá trị sáng gốc). Giá trị sáng tại các vùng còn lại trên tấm hình được tái hiện dựa trên tỷ lệ tương quan với giá trị sáng gốc này. Đây là cách thức đo sáng “buộc phải sử dụng” khi chụp ảnh chân dung, đặc biệt là chân dung trong điều kiện ngược chiều ánh sáng.
+ Center-weight metering: đo sáng vùng bao quanh điểm lấy nét. Đảm bảo vùng trung tâm xung quanh điểm lấy nét của tấm hình (bao gồm vị trí đặt điểm lấy nét và các vùng liền kề xung quanh) chụp ra được “đủ sáng”, trong khi các vùng sáng tối ở xa hơn có thể có sự sai lệch trong giới hạn cho phép. Thực tế Center-weight metering là cách thức đo sáng chỉ xuất hiện từ khi máy ảnh số trở nên phổ biến. Còn trước đó, trong thời kỳ máy phim lẫn máy ảnh số sơ khai, cách thức đo sáng chỉ bao gồm Matrix và Spot, cũng là hai cách thức mà chúng ta thường sử dụng nhất.
+ Partial metering: cách thức đo sáng ít gặp, nằm đâu đó giữa spot metering và center-weight metering.
Ký hiệu và minh họa cách thức đo sáng của từng loại trên:
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 3
Máy ảnh ghi nhận giá trị sáng tại các vùng ảnh màu xám (độ đậm của màu xám thể hiện mức độ được
chú trọng nhiều hơn) rồi đưa ra giá trị phơi sáng cuối cùng cho tấm hình chụp ra.
Metering mode trên máy ảnh ống kính rời thường được đặt trên một nút bấm riêng. Đối với máy ảnh du lịch, nó cũng có thể nằm trên một nút bấm riêng hoặc nằm sâu bên trong Menu tùy chỉnh.
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 4
Nút tùy chỉnh Metering dạng bấm (khoanh màu đỏ).
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 5
Nút tùy chỉnh Metering dạng xoay gạt.
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 6
Tùy chỉnh Metering trên Menu bên trong máy.
3.      Thiết lập kiểu chụp (Drive):
Thiết lập kiểu chụp của máy: Chụp đơn (single) từng tấm một, Chụp liên tiếp (continous) nhiều tấm liên tiếp cho tới khi đầy bộ nhớ đệm, hay Chụp hẹn giờ (self-timer). Một số máy có tính năng High Continous giúp chụp liên tiếp được nhiều tấm hình hơn trong 1 giây, nhưng độ phân giải ảnh sẽ bị giảm đi.
Cách sử dụng các kiểu chụp này sao cho hiệu quả đã được nói tới kỹ càng trong loạt bài viết Vận dụng tốc độ chụp, mời các bạn xem lại để hiểu rõ hơn.
Nút thiết lập Drive:
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 7
Nút thiết lập Drive mode (khoanh màu đỏ).
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 8
Thiết lập drive mode trên Menu bên trong máy.
4.      Thiết lập cân bằng trắng (White Balance / WB)
Xác định loại nguồn sáng hay điều kiện ánh sáng tại thời điểm chụp (điều kiện sáng là trời nắng gắt, trời nhiều mây… / nguồn sáng là đèn huỳnh quang, đèn sợi đốt…) để từ đó máy ảnh tái tạo màu sắc cho tấm hình được chính xác. Với sự phát triển của công nghệ ngày nay, máy ảnh số làm việc khá tốt trong việc tự động xác định nguồn sáng / điều kiện sáng nên người dùng có thể yên tâm để WB ở chế độ Auto, hoặc các thiết lập WB có sẵn trên máy. Với người sử dụng các mẫu máy ảnh số cao cấp hay chuyên nghiệp, còn có thể lựa chọn cân bằng trắng theo độ K hoặc custom. Ký hiệu và ý nghĩa của chúng như sau:
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 9
Ký hiệu và ý nghĩa của các loại WB (cột bên trái, từ trên xuống dưới): Cân bằng trắng tự động, Cân bằng trắng tùy chọn, Cân bằng trắng theo nhiệt độ màu Kelvin, Cân bằng trắng với nguồn sáng bóng đèn sợi đốt, bóng đèn huỳnh quang, ánh sáng ban ngày, đèn flash, trời nhiều mây, bóng râm.
Cột bên phải minh họa rõ nét hơn về các sử dụng Cân bằng trắng theo nhiệt độ màu Kelvin. Theo đó, nhiệt độ màu càng cao tương ứng với nguồn sáng càng lạnh, lúc này máy sẽ phải bổ sung thêm gam màu lạnh vào hình chụp để bù lại.
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 10
Nút tùy chỉnh WB (khoanh màu đỏ) trên máy ảnh.
5.      Thiết lập độ nhạy sáng (ISO)
Như bài viết Các thông số cơ bản trong nhiếp ảnh: Sự phơi sáng đã phân tích, ISO cao cho tốc độ chụp nhanh hơn, khắc phục được nhược điểm của những ống kính có độ mở nhỏ, tuy nhiên bù lại, chất lượng ảnh sẽ kém đi với nhiều hạt (noise) và sự sai lệch trong tái hiện màu sắc. Với các mẫu máy ngày nay, ISO tối đa có thể lên tới 128.000, nhưng thực sự đó chỉ là con số mang tính chất chạy đua công nghệ giữa các hãng với nhau, vì chẳng ai cần đến mức ISO “điên rồ” đó cả. ISO 50-100 được coi là tốt nhất cho ảnh chụp chân dung (ngoài trời, đủ sáng) vì chúng tạo hiệu ứng mịn da (khỏi cần Photoshop) cho người mẫu. ISO 200-800 phù hợp với ảnh chụp trong nhà, trời chiều muộn. ISO 800-1600 phù hợp với ảnh chụp buổi tối, ánh sáng yếu.
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 11
Nút tùy chỉnh ISO.
6.      Thiết lập cách thức lấy nét (Focusing)
Chuyển đổi qua lại giữa 3 phương thức lấy nét: tự động lấy nét một lần (Single autofocus), tự động lấy nét liên tục (Continuous autofocus) và lấy nét bằng tay (Manual focus) tùy theo từng thể loại ảnh chụp (xem lại bài viết Vận dụng tốc độ chụp - phần I).
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 12
Nút tùy chỉnh Focusing.
Thông thường, Single autofocus được sử dụng với chủ thể tĩnh (chân dung, phong cảnh, tĩnh vật). Continuous autofocus được sử dụng để đeo bám (object tracking) chủ thể động (thể thao, trẻ em, tốc độ cao) và Manual focus được sử dụng trong trường hợp chủ thể có ít sự tương phản (ví dụ: bức tường đồng màu) hoặc khoảng cách lấy nét cực gần (close-up).
7.      Thiết lập kích thước và chất lượng ảnh chụp
Thiết lập các thông số trước khi chụp ảnh 13
Nút thiết lập kích thước và chất lượng ảnh chụp (khoanh màu đỏ).
Thông thường máy ảnh số lưu ảnh dưới 2 định dạng: ảnh số dạng thô (file .RAW, .TIFF) và ảnh số dạng nén (file .JPG hay .JPEG). Nếu bạn không phải là người quan tâm nhiều tới vấn đề xử lý hậu kỳ với các phần mềm chuyên dụng như Photoshop thì không cần sử dụng tới định dạng ảnh thô vì chúng có dung lượng rất lớn, tầm vài chục – thậm chí đến cả trăm Mb.
Với mỗi ảnh chụp, có thể lựa chọn kích thước lớn (chính là độ phân giải tối đa mà mỗi mẫu máy ảnh thường quảng cáo, ví dụ 18 “chấm” – 18 Megapixel), vừa hoặc nhỏ.
Tương tự như vậy, chất lượng ảnh có thể chọn Tốt (Fine, Best), Bình thường (Normal, Standard) hoặc Thấp (Low), chúng sẽ ảnh hưởng tới dung lượng của ảnh.
Trên đây là các thông số quan trọng mà bạn đọc cần thiết lập – bất kể với một chiếc máy ảnh ống kính rời cao cấp hay du lịch bình dân, để tối ưu hóa khả năng làm việc của chúng. Trong bài viết tuần sau, GenK sẽ hướng dẫn các bạn cách bố cục một tấm hình sao cho thật "chuyên nghiệp và ấn tượng". Sẽ là một bài viết thú vị và bổ ích khác nữa, mời bạn đọc đón xem! 

Biết cách khai thác một số chức năng tiên tiến của máy, người chụp sẽ cải thiện được độ nét của bức ảnh.

Một trong những điều băn khoăn của không ít người chụp là sao những bức hình mình chụp lại không nét bằng những bức vẫn thấy trên Internet, dù đã thực hiện đủ các kỹ thuật cần thiết như cầm chắc máy, nâng tốc độ cửa trập, lấy nét đúng… Tuy nhiên, đó mới chỉ là những kỹ thuật khởi đầu để có một bức ảnh đẹp. Thực ra, ngay cả các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp cũng có không ít những bức bị rung, bị mờ, chỉ là họ không công bố rộng rãi mà thôi.

Ngoài những kỹ thuật cơ bản ở trên, tạp chí nhiếp ảnh Digital Photography School đã tổng hợp thêm một số kỹ thuật khác giúp người chụp có thể khai thác để có được những bức ảnh thật sự nét của riêng mình.

Nút lấy nét phía sau thân máy.
[​IMG]
Chế độ AF gần màn hình. Ảnh: Digital Photography School.

Rất nhiều người chụp ảnh thực hiện các thao tác lấy nét bằng nhá nút chụp rồi ấn thẳng để chụp ảnh. Vấn đề ở chỗ nếu lấy nét và chụp theo cách thức này, mỗi khi bạn nhá nút chụp là một lần máy ảnh sẽ lấy nét lại. Nếu đối tượng ở quá xa hoặc khung cảnh có nhiều người, cách thức trên rất dễ dẫn tới hiện tượng khoảng nét liên tục bị thay đổi do máy lấy nhầm vào những đối tượng di chuyển xung quanh điểm nét đã chọn.

Giải pháp cho vấn đề này là trên hầu hết các máy DSLR, luôn có nút “AF-On” phía sau máy có thể chuyển thành nút lấy nét độc lập mà không cần phải bấm nhá nút chụp ảnh nữa. Khi kích hoạt tính năng này trong menu, mỗi lần bạn bấm nút AF-On, khoảng nét đã lấy sẽ được giữ nguyên (tương tự như chức năng khóa nét) và như vậy có thể bấm bao nhiêu ảnh tùy thích cho đến khi có được bức ưng ý mà không sợ khoảng nét bị thay đổi. Lúc này, nút chụp ảnh sẽ chỉ đơn thuần là nút chụp chứ không còn đóng vai trò là nút lấy nét nữa, giải phóng cho ngón tay bấm máy của bạn.

Nên nhớ luôn có sự khác nhau giữa việc để máy ảnh chọn điểm nét và tự mình chọn điểm nét. Do các máy DSLR càng ngày càng được cải tiến với các giải thuật tiên tiến nên rất nhiều người chọn cách để cho máy chọn điểm nét (bằng cách bật tất cả các điểm nét) thay vì tự chọn bằng tay. Không thể phủ nhận rằng về cơ bản, trong hầu hết các trường hợp máy lựa chọn khá chuẩn xác do đối tượng cần chụp luôn chiếm phần lớn khung hình. Nhưng vấn đề chỉ thực sự nảy sinh nếu như bạn sử dụng độ mở lớn dẫn tới khoảng nét hẹp.

Ví dụ, nếu đối tượng đứng ở khoảng cách 3 mét và sử dụng tiêu cự tele 200mm, độ mở f/2.8, độ sâu trường ảnh chỉ khoảng 4cm. Điều này nghĩa là đối tượng của bạn chỉ nét từ khoảng 2,98m đến 3,02m, còn ngoài khoảng đó sẽ bị mờ. Với khoảng nét hẹp như vậy mà để cho máy ảnh tự quyết định điểm nét sẽ rất dễ dẫn đến trường hợp máy lấy đầu mũi làm điểm nét khiến cho phần mắt (phần biểu cảm chính của đối tượng) lại bị mờ.

Giải pháp cho vấn đề này là kích hoạt chế độ chọn điểm nét, dùng bánh xe hay joystick tùy thân máy để chọn chỉ một điểm nét (single-point) trong các điểm mà máy hỗ trợ. Nếu muốn lấy nét vào mắt đối tượng, hãy di chuyển điểm nét đã chọn vào vị trí mắt, bấm nút lấy và khóa nét AF-On. Khi điểm nét đã được khóa trên khung hình, chỉ cần lo việc tìm ra những khoảnh khắc thích hợp để bấm máy.

Chế độ bám nét liên tục.

Ngoài chế độ lấy nét một lần, đừng quên máy ảnh còn có chức năng bám nét liên tục Servo focus.
[​IMG]
Khoảnh khắc hạnh phúc của hai bố con. Ảnh: Digital Photography School.

Chế độ AI Servo bắt đầu trở nên thông dụng và trở thành một trong những chức năng tiêu chuẩn trên máy ảnh từ những năm 80 do nhu cầu của các nhiếp ảnh gia thể thao muốn lấy nét chính xác hơn trên những đối tượng luôn chuyển động. Ở chế độ này, máy ảnh sẽ bám nét liên tục theo từng chuyển động. Ở một số máy, người chụp còn có thể điều chỉnh độ nhạy của chức năng bám nét này.

Ví như bức ảnh trên đây, chụp khoảnh khắc hạnh phúc của một người bố chơi với con trai mình. Do đối tượng đang chụp chuyển động nên tác giả đã sử dụng chế độ nét điểm vào cậu bé, bấm giữ nút AF-On vào khoảng vị trí này rồi kích hoạt chế độ bám nét AI-Servo mỗi lần cậu bé quay đến. Kết quả là một bức ảnh ấn tượng dù tác giả chụp với một khoảng nét khá hẹp.
[​IMG]
Ban nhạc Jars of Clay. Ảnh: Digital Photography School.

Còn bức ảnh trên đây được chụp trong một phòng họp tại nhà hát Austin, Texas của ban nhạc Jars of Clay. Tác giả bức ảnh đã ngồi một chỗ cố định, chọn nét điểm rồi khóa nét vào gương mặt của ca sĩ hát chính. Lúc này, nhiếp ảnh gia chỉ việc chờ với ngón tay đặt trên nút chụp, đến thời điểm ca sĩ quay ra nhìn máy ảnh, anh ta bấm máy. Kết quả là một bức ảnh khá sống động thay vì những bức hội nghị vốn thường nhàm chán vì quá nhiều người.

http://forum.vietdesigner.net/threads/meo-de-anh-chup-luon-duoc-sac-net-suu-tam.

Máy ảnh dSLR - một số điều cần biết về ống kính
http://www.tinhte.vn/threads/camera-tinh-te-may-anh-dslr-mot-so-dieu-can-biet-ve-ong-kinh-01.1697693/

20121104_071202.JPG ​
Khi quyết định chọn mua chiếc máy ảnh dSLR có nghĩa là bạn đã chấp nhận đầu tư một HỆ THỐNG bao gồm thân máy, ống kính và các phụ kiện, việc chọn thân máy đã mệt mỏi rồi, mà cân nhắc một (vài) chiếc ống kính cho mình còn nhức đầu hơn nữa với hàng loạt thông tin, thông số kỹ thuật. Camera tinh tế sẽ cung cấp cho các bạn một số thông tin cơ bản nhất hi vọng giúp các bạn đơn giản hóa quá trình trang bị vũ khí cho mình.


Tóm tắt:

Ống kit (kit lens) là ống bán kèm theo máy, cũng có bán rời, giá thành rẻ, chất lượng thân vỏ yếu nhưng chất lượng quang học cũng khá tốt, đảm bảo cho nhu cầu khởi đầu, máy crop thường bắt đầu bằng 18mm, hoặc máy FF bắt đầu bằng 24mm.

Ống fix (prime) là loại chỉ có 1 tiêu cự (một góc nhìn) ưu điểm: cho chất lượng quang học tốt tới rất tốt, độ mở (khẩu độ) tối đa lớn, thường rẻ hơn những ống zoom một khẩu độ.

Ống zoom là loại có thể thay đổi được góc nhìn (tiêu cự) - độ linh hoạt cao, nếu là loại một khẩu độ (khi zoom không bị thiệt sáng) thì khá đắt tiền.

Chọn ống zoom hay ống fix tùy thuộc phong cách cũng như túi tiền.

Ống normal (50mm) cho góc nhìn tương tự như mắt người, ống có góc nhìn rộng hơn (tiêu cự <50mm) gọi là ống wide, ống có góc nhìn hẹp hơn (tiêu cự >50mm) gọi là ống tele.

Ống wide zoom chỉ có góc rộng dưới 50mm, ống normal zoom: là ống zoom chứa tiêu cự 50mm, tele zoom chỉ có tầm tele trên 50mm.

Ống nào để chụp Macro - cho DSLR
DSC_6121.JPG ​

Video đầu tiên của năm mới Quý Tỵ, chúc các bạn một mùa xuân đầy ... hình ảnh.
Trong nhiếp ảnhchụp cận cảnh / macro là một thể loại rất thú vị bởi nó cho ta một góc nhìn khó nhìn thấy bằng mắt thường. Thể loại này thường đòi hỏi khắt khe hơn một chút về thiết bị mà đôi khi các chủ đề khác như phong cảnh, đời thường không đến nỗi phức tạp về kỹ thuật như vậy. Ngoài ống kính, chụp macro cũng cần thêm một số phụ kiện để có thể đạt được hiệu quả tối đa.


Tóm tắt video
  • Thiết bị macro "tiêu chuẩn" cho phép tỷ lệ phóng đại 1:1 (kích thước vật thể in lên film/cảm quang bằng đúng kích thước thật)
  • Có thể lắp thêm close-up filter (kính lúp), extention tube (ống nối), đảo đầu ống kính để đạt được khoảng lấy nét gần nhất gần hơn nữa - giúp phóng đại vật thể
  • Ống kính macro (micro) có nhiều tiêu cự - ứng với các khoảng làm việc khác nhau, ống tiêu cự dài cho phép bố trí máy ở xa chủ thể hơn mà vẫn đạt tỷ lệ 1:1
  • Chụp macro thường phải khép khẩu nhỏ để đạt được độ sâu trường ảnh tương đối, và do vậy tốc độ chụp sẽ phải giảm hoặc ISO phải tăng để hình đủ sáng
  • Muốn duy trì chất lượng ảnh sẽ cần thêm chân ba (tripod) hoặc flash (chuyên dụng càng tốt) hoặc cả hai
Một số điều cần biết về ống kính.
Ống chụp chân dung:

Ảnh cận cảnh (macro)
Hùng vũ : Sonyviet

Chụp cận cảnh đơn giản nghĩa là chụp gần chủ thể. Từ “macro” xuất phát từ tiếng Hy Lạp “makros” có nghĩa là “lớn”. Lý do vì sao từ này được dùng để chỉ ảnh cận cảnh là do khi được chụp gần, kích thước của chủ thể trong ảnh sẽ được phóng to bằng hoặc lớn hơn chủ thể thật ở ngoài. Một điều thú vị ở thể loại ảnh cận cảnh này là nếu bạn có mắt nhìn tinh tường thì bất kỳ vật gì cũng có thể trở thành chủ thể thú vị của bạn.

[​IMG]

Những lời khuyên

1. Hãy bắt đầu nhỏ

Nếu bạn mới bắt đầu chụp thể loại ảnh cận cảnh thì bạn nên chụp tĩnh vật hay những chủ thể không quá sinh động trước. Những đồ vật như đồng xu, con tem, hay thậm chí những món đồ chơi yêu thích của bạn sẽ tốt cho bước khám phá ban đầu. Hãy đặt chúng lên một mặt phẳng thích hợp, sạch sẽ, không bừa bộn và bạn bắt đầu chụp. Nhưng hãy nhớ là vì bạn chụp cận cảnh nên những chi tiết nhỏ như bụi, vết bẩn hay vết cáu dơ trên chủ thể, trên bề mặt cũng sẽ hiện lên rất rõ. Hãy loại bỏ chúng trước khi chụp. Bạn hãy làm vệ sinh các vật chụp trước tiên và bảo đảm bạn chụp chúng trong phòng sạch sẽ, ít bụi và không có quạt thổi trực tiếp vào vật chụp. 

[​IMG]

Ánh sáng sẽ là một vấn đề khi bạn chụp những vật phản chiếu ánh sáng như đồng xu, gương, đồ trang sức, v.v... Bạn hãy đặt chúng dưới nguồn ánh sáng khuếch tán và không chiếu thẳng đèn flash vào. Nếu mọi cố gắng loại sự phản xạ ánh sáng (hay bóng tối) thất bại thì bạn cần một hộp phân tán ánh sáng (light tent). Những tấm hình chóp hay hình nón sẽ bao phủ chủ thể và giúp làm mềm nguồn ánh sáng, giảm độ phản xạ. Nếu bạn muốn tự làm hộp phân tán ánh sang (light tent) thì tấm màn trắng hay cái bao gối là những vật dụng gia đinh mà bạn có thể lấy làm vật liệu. 


2. Chụp côn trùng

Côn trùng và bướm là những chủ thể phổ biến để chụp cận cảnh. Khi chụp chúng, chỉ có hai từ cần nằm lòng là: nghiên cứu và kiên nhẫn. Cho dù định chụp loại côn trùng
nào thì bạn cũng nên biết địa điểm và thời gian chúng hay xuất hiện hay hỏi một người chụp cùng sở thích khác về nơi chúng thích lui tới. Kiên nhẫn cũng là một yếu tố
quan trọng. Bạn có thể phải chờ hàng giờ trước khi chủ thể thích hợp xuất hiện. Lý tưởng nhất là bạn nên chuẩn bị kỹ các thiết bị rồi chờ chủ thể đến hơn là đuổi theo chúng một cách ngốc nghếch. Nếu phải tiến lại gần chủ thể thì hãy thực hiện thật cẩn thận. Đừng tạo nên những chuyển động hay tiếng ồn không cần thiết khiến chúng hoảng sợ và bỏ chạy. Bạn cũng hãy cẩn thận, đừng phủ bóng tối lên chúng.

3. Ánh sáng là chìa khóa

Ánh sáng luôn là một yếu tố quan trọng trong nhiếp ảnh và dĩ nhiên kể cả ảnh cận cảnh. Ngay cả khi chụp trong một ngày đầy nắng, bạn cũng có thể sử dụng đèn flash để bù sáng cho những vùng tối và tăng độ sinh động cho màu sắc. Nếu máy của bạn có chức năng đó thì bạn nên dùng đèn flash ngoài chuyên dụng. Đèn flash trong máy
ảnh cũng tốt nhưng khi khoảng cách quá gần thì ống kính có thể cản ánh sáng gây đổ bóng lên chủ thể. 

4. Kỹ thuật lấy nét

Mặc dù máy ảnh có thể tự động lấy nét nhanh trong tình huống thông thường nhưng khi chụp cận cảnh máy sẽ lấy nét chậm hơn do khoảng cách quá ngắn. Nếu thấy máy
khó lấy nét tự động thì bạn hãy chuyển ngay sang chế độ lấy nét bằng tay. Thông thường, di chuyển máy về sau và đưa người ra trước sẽ dễ lấy nét hơn. 

Tác giả bài viết: 
ruanweixin - vnphoto.net


5. Kiểm soát DOF

Bạn còn nhớ chương viết về DO F không? Bạn càng gần chủ thể thì DOF càng mỏng. Vì vậy, để tăng tối đa DOF bạn sẽ chụp ở khẩu độ càng nhỏ càng tốt. Tuy nhiên, điều này
chắc chắn đoi hỏi bạn dung tốc độ màn trập chậm hơn gây rung máy nếu bạn cầm máy trên tay. Một độ rung dù rất nhẹ của máy cũng có thể khiến ảnh cận cảnh bị nhòe
mờ. Vì vậy, bạn hãy nhớ luôn mang theo giá đỡ máy ảnh. 

6. Xác định tỉ lệ phóng to

Khi tham khảo ống kính cận cảnh DSLR chuyên dụng, bạn có hiểu từ “tỉ lệ phóng to” nghĩa là gì không? Ví dụ, khi có người nói “1/10 kích thước thật” có nghĩa là ví dụ như chủ thể thật cao 10cm sẽ được chiếu thành 1cm trên phim hay bộ cảm biến. Trường hợp này có thể được viết thành: độ phóng to 0,1x hay thể hiện theo tỷ lệ là 1:10. Vì vậy, khi nói độ phóng to là 1x nghĩa là 1:1 cũng có nghĩa là chủ thể được ghi bằng với kích thước thật trên phim hay bộ cảm biến. Tương tự, độ phóng to 0,5x (một nửa kích thước thật) có tỉ lệ là 1:2 và độ phóng to 2x (gấp đôi kích thước thật) sẽ có tỉ lệ là 2:1. 
Ảnh dùng ống kính có độ phóng to ít nhất là 1x theo kỹ thuật gọi là ảnh cận cảnh.

Các loại ống kính được khuyên sử dụng


Với người mới sử dụng máy DSLR thì cách nhanh và dễ nhất để tăng độ phóng to là dùng kính lúp phóng đại - một kính gắn ngoài ống kính trông giống như kính lọc. Nhiều nhà sản xuất bán riêng loại kính này chứ không bắt buộc mua kèm theo máy ảnh. Trong bất kỳ trường hợp nào, nếu mua loại kính này thì bạn hãy bảo đảm kích cỡ vừa với ống kính đang sử dụng. Cái hay ở loại kính này là chúng khá rẻ, nhẹ nên dễ mang theo. 

Kính lúp có độ phóng đại linh hoạt thường từ +1 đến +10 đi ốt cho biết khả năng phóng đại của nó. Bạn có thể chồng 2 kính phóng đại lại với nhau để tăng sức mạnh phóng đại (chồng một kính +1 lên kính +3 sẽ cho bạn độ phóng đại +4). 

Nhưng bạn không nên ghép quá hai kính bởi sẽ có nguy cơ làm mờ nét ảnh. Kết hợp quá nhiều kính cũng làm giảm chất lượng của ảnh. Tiện dụng hơn, ống kính cận cảnh là một lựa chọn tốt nhất. Ống kính cận cảnh cũng có độ dài tiêu cự linh hoạt như 50/55/100mm và cho độ phóng to ít nhất là 0,5x (tỉ lệ 1:2) đến 1x (tỉ lệ 1:1). Ưu điểm của ống kính cận cảnh có tiêu cự dài hơn là nó cho phép người chụp đứng ở vị trí cách xa chủ thể hơn nên có thể giảm thiểu khả năng khiến chủ thể hoảng sợ bỏ chạy. Ngoài khả năng chụp cận cảnh, những ống kính này còn được dùng như các loại ống kính khác. Nhiều người chụp ảnh còn dùng kính chụp cận cảnh để chụp chân dung. 

Dành cho những ai đam mê chụp cận cảnh, vòng ánh sáng và bộ đôi đèn flash là các thiết bị ánh sáng tuyệt vời cho chủ thể được chụp cận cảnh. Vòng ánh sáng và bộ đôi đèn flash được lắp vào ống kính máy ảnh và có thể rọi sáng đều cho chủ thể nếu không bị người chụp, máy ảnh hay bất kỳ vật nào khác che khuất chủ thể gây đổ bóng.

Sự khác nhau giữa nghệ thuật nhiếp ảnh 'macro', 'micro' và 'close up'

Người đăng bài viết: Phạm Hải Đăng

Điểm khác biệt của nghệ thuật nhiếp ảnh 'macro', 'micro' và 'close up' là gì?



Những người người mới tìm hiểu về nhiếp ảnh sẽ khó có thể hiểu rõ ràng về các thuật ngữ 'macro', 'micro' và 'close up' trong nhiếp ảnh và không biết sự khác biệt giữa chúng ra sao. Với những người mới bắt đầu, macro và micro thường giống nhau, hãng Nikon đặt tên cho dòng ống kính macro với cái tên 'micro'. Canon thì ngược lại, gọi chúng là ống kính 'macro'.

Ví dụ, ống kính macro đỉnh của Nikon có tên là AF-S VR Micro-Nikkor 105mm f/2.8G IF-ED lens. Hãy chú ý thuật ngữ 'micro' trong cái tên này. Còn ống kỉnh macro đỉnh của Canon lại có tên Canon EF 100mm f/2.8 macro lens. Trong trường hợp này, không có thuật ngữ 'micro'  mà chỉ có 'macro'.

Trong nhiếp ảnh, macro và micro có nghĩa là gì?


Thuật ngữ 'macro' có nghĩa là 'lớn', trong khi đó 'micro' lại có nghĩa là 'nhỏ'. Vậy làm thế nào hai thuật ngữ này lại có liên quan đến nhau?

Nếu đối tượng bạn đang chụp nhỏ và bạn muốn nó trông có vẻ lớn trong bức ảnh của mình, bạn có được một góc nhìn 'macro' của một đối tượng 'micro'.

Thế nào là thuật nhiếp ảnh macro (micro)?

Thuật nhiếp ảnh macro là thuật nhiếp ảnh được chụp với một ống kính macro chuyên dụng. Một ống kính macro thật sự có khả năng đạt được ít nhất một tỉ lệ phóng đại 1:1. Một chiếc máy ảnh có thuật ngữ 'macro' được viết trên ống, không có nghĩa là đó là một ống kính macro thật sự. Cả hai dòng ống kinh Nikon và Canon được nhắc đến ở trên, đều là những ống kính macro thật sự.

Làm thế nào để nhận diện một ống kính macro thật sự?


Macro Photo Of Blue DragonflyDigital SLR Camera: Canon EOS 400D / Rebel XTi DSLR Lens:Canon EF 100mm f/2.8 MacroExposure Program: Shutter priorityExposure: 0.003 sec (1/400) Aperture:f/3.2 Focal Length: 100 mm ISO Speed: 200 

Như đã nói ở trên, một ống kính macro thật dành cho máy DSLR có độ phóng đại ít nhất là 1:1. Độ phóng đại này thường được viết trên ống kính hoặc trong tài liệu hướng dẫn kèm theo. Chú ý: Khẩu độ f không phải là thông số chúng ta đang nói ở đây. Ví dụ, một ống kính macro dùng để chụp ảnh chuồn chuồn phía trên có độ mở khẩu tối đa là f/2.8. Tuy nhiên, nó có độ phóng đại 1:1, điều này làm cho nó trở thành một ống kính macro thật sự. Trên phương diện kỹ thuật, tỉ lệ này được đo bằng kích thước đối tượng xuất hiện trên cảm biến của máy ảnh. Một ống kính với độ phóng đại 1:1 có nghĩa là đối tượng xuất hiện với kích thước như ngoài đời thật trên cảm biến. Một ống kính macro với độ phóng đại 2:1 cho phép đối tượng trên cảm biến lớn hơn 2 lần so với thực tế. Tương tự, một ống kính 1:2 sẽ cho hình ảnh trên sensor chỉ bằng một nửa kích thức thật. Vì thế ống kính 1:2 không phải là ống kính macro thật sự.

  • 1:1 hoặc 2:1: ống kính macro thật sự.
  • 1:2 thì không phải là ống kính macro thật.  

Thuật nhiếp ảnh 'close up' là gì?


Thuật nhiếp ảnh 'close up', có thể gọi là thuật nhiếp ảnh cận cảnh, là việc chụp một đối tượng như bông hoa, côn trùng trong khoảng cách gần, vì thế đối tượng ấy sẽ chiếm đầy khung hình của bạn. Nói cách khác, đó là hành động chụp cận cảnh với khoảng cách gần. Điều này có thể làm với bất cứ ống kính nào, thậm chí là một ống kính tele 300mm.

Thuật nhiếp ảnh 'macro' là một phần thiết yếu của thuật nhiếp ảnh 'close up'. Tuy nhiên, thuật nhiếp ảnh 'close up' không phải lúc nào cũng là thuật nhiếp ảnh 'macro'. Ví dụ, nếu bạn có một ống kính không phải ống kính macro thật sự, mà chỉ có thiết lập chế độ macro (như rất nhiều dòng máy compact ngày nay), thì tác phẩm của bạn thường sẽ là 'close up', chứ không phải là macro chính thống.

Làm thế nào để nhận ra điểm khác biệt giữa thuật nhiếp ảnh macro và close up?


Chụp được những chi tiết nhỏ nhất, đến từng chân tơ kẽ tóc, là một trong những điểm khác biệt chính của thuật nhiếp ảnh macro / micro so với close up.

Những ống kính macro có lí do để có giá đắt. Bởi vì, một ống kính macro thật sự cho phép người chụp có được những chi tiết cụ thể hơn những cái khác có thể làm được. Ví dụ, râu của một loài côn trùng, hay những mắt đơn cấu tao nên mắt kép của một số loài côn trùng.

Xem xét hai bức ảnh dưới đây. Tấm đầu tiên là một ví dụ điển hình cho thuật chụp cận cảnh, được chụp với một ống kính tele của Nikon. Trong khi đó, tấm thứ hai lại là một bức ảnh macro, cho chúng ta độ phóng đại lớn hơn và thấy được những chi tiết vô cùng nhỏ.


Tác giả bài viết: 
Nguồn tin: Difference between macro micro and close up photographyWhat is a macro lens and how do you recognise one?

Phần1: CÁI NHÌN TỔNG THỂ VỀ ẢNH MACRO & CLOSE UP:


Ngay từ thuở nhỏ, chúng ta chắc ai cũng thích tìm tòi, săm soi các vật thể nhỏ, côn trùng, hoa lá…qua cái kính lúp nho nhỏ và ngạc nhiên thích thú khi phát hiện ra trong cái thế giới tí hon đó là cả một thế giới màu sắc lạ lùng, hình ảnh kỳ dị…Những hạt phấn hoa li ti những cái râu kiến …nhìn cũng rất là khác lạ qua cái kính lúp đó.
Thế giới trong ảnh Macro cũng vậy. Đầy màu sắc và đầy bất ngờ. Có những thứ rất bình thường nhưng khi được chụp phóng đại lên, nhìn thật bất ngờ và thú vị mà với mắt thường, chúng ta không thể thấy được.
Chụp cận ảnh hay chụp phóng đại là thể loại chụp ảnh mà chủ thể được đưa đến rất gần máy ảnh. Hình ảnh của chúng được phóng to lên một hay nhiều lần. Nếu phóng rất to thì chúng ta lại bước qua một thể loại khác : vi ảnh – là ảnh chụp qua kính hiển vi của các nhà khoa học thực hiện. Ở đây chúng ta chỉ bàn về thể loại Macro (và close up) thôi nhé!
Những chủ đề mà chúng ta áp dụng trong ảnh Macro hay nói khác đi là với thể loại ảnh Macro thì chúng ta chụp cái gì? Có một số chủ đề mà chúng tôi thường chụp như sau:
1. Thiên nhiên: hoa, lá, côn trùng, sâu bọ …
2. Chất liệu : Vải vóc, len …
3. Đá quí, nữ trang …
4. Bộ phận cơ khí, điện tử nhỏ.
5. Các bộ phận của động vật hay người.
6. Và còn nhiều thứ khác quanh ta nữa …
Những điều cơ bản khi bắt đầu:
1. Ánh sáng: nên chọn nơi có ánh sáng mạnh (với chủ đề thiên nhiên) vì khi chụp chúng ta thường đóng khẩu (sẽ nói rõ ở các bài sau) nên cần ánh sáng tốt. Các loại ánh sáng nhân tạo được dùng đến khi ánh sáng tự nhiên quá yếu.
2. Hướng của nguồn sáng, vị trí máy chụp.
3. Điểm tựa, tư thế.
4. Chọn khẩu độ và tốc độ thích hợp.
5. Cân chỉnh các thông số của máy.

Phần 2: CÁC CÁCH THỨC PHÓNG ĐẠI CHỦ THỂ – MACRO METHODS:

Mình tiếp tục ở phần các cách thức để phóng đại chủ thể nói nôm na là cách sử dụng ống kính và thiết bị khác kèm theo để chụp macro. Có nhiều cách nhưng cơ bản gồm:
1. Sử dụng ống kính chuyên dùng.
2. Đảo đầu ống kính.
3. Chụp ngược ống kính.
4. Dùng ống nối – Extension Tube và Extension Bellows.
5. Dùng teleconverter.
6. Close up Filter hay kính lúp.
Chúng ta đi từng bước nhé:
1. Sử dụng ống kính chuyên dùng: Các thương hiệu chính hay hàng FOR đều có các ống kính chuyên dùng để chụp macro:
Canon: 100mm f/2.8, 65mm f/2.8, 60mm f/2.8, 180mm f/3.5…
Các loại ống kính trên được thiết kế chuyên cho thể loại cận ảnh. Với loại này, khoảng cách cực gần từ chủ thể tới máy (tới mặt film hay sensor) rất gần. Điều này cho phép tối đa kích cỡ của chủ thể trên mặt film (hay sensor). Các loại OK trên cho tỉ lệ ảnh macro là 1:1. Một số hình ảnh từ các OK trên.
Do được thiết kế chuyên cho ảnh Macro, chất lượng ảnh rất trong và sắc nét. Nhưng thường thì các loại này chỉ dùng cho ảnh macro, nếu dùng cho mục đích khác không được hoàn hảo lắm. Thí dụ như nhiều người cho rằng OK Canon 100mm có thể chụp chân dung nhưng thực tế cho thấy độ bén không cần thiết cho thể loại này sẽ gây khó chịu khi gặp người mẫu có da mặt hơi … nhám, sẽ rất tốn công khi xử lý hậu kỳ.
Cũng có những OK khác cho phép vào gần chủ thể nhưng tỉ lệ là 1:2 hay hơn. Các loại OK này thì là tích hợp, không phải chuyên dùng nên chất lượng ảnh dĩ nhiên không bằng loại chuyên dùng.
2. Đảo đầu ống kính (stacking lenses): đây là phương án được sử dụng từ rất lâu. Các tay máy dùng một ống tele rồi sau đó dùng ống normal (50mm) có khẩu nhỏ (1.4 hay 1.8…) đảo ngược đầu ráp vào ống tele đó. Để nối hai OK lại với nhau, người ta dùng một khớp nối (adapter ring) để nối chúng lại. Ring đảo đầu có hai vòng răng tương ứng với kích cỡ của hai đầu hai ống kính đó. Phương pháp này tương đối rẻ tiền nhưng khá hiệu quả. Chất lượng ảnh tương đối tốt. Hạn chế của phương pháp này là khó canh nét, DOF rất mỏng. Về nguyên tắc thì ống kính đảo ngược có tác dụng như một thấu kính hội tụ, phóng lớn ảnh trước khi vào OK chính.
Để canh nét chúng ta xoay vòng lấy nét của ống thuận. Cách thứ hai là tịnh tiến máy vào chủ thể. Có lẽ cách thứ hai là dễ hơn vì việc lấy nét của cách đảo OK này rất khó, chủ thể thường sẽ nằm rất gần máy.
Chúng ta cũng có thể áp dụng phương pháp đảo đầu OK với máy P&S. Chế một ống tube gắn vào body máy P&S. Độ dài tube thích hợp sao cho khi zoom OK chính vẫn an toàn. Đầu tube kia gắn với ring đảo đầu mà tôi đã nhắc ở trên.
Độ phóng đại của cách này tương đối khá lớn. Chúng còn tuỳ thuộc vào tiêu cự của hai OK sử dụng. Chúng tôi nhận thấy độ phóng đại tỉ lệ thuận với tiêu cự OK thuận và tỉ lệ nghịch với tiêu cự OK ngược. Thông thường thì người ta dùng OK 50mm cho ống ngược nhưng có lần tôi dùng ống 28mm làm ống ngược thì độ phóng đại tăng lên nhiều nhưng ảnh sẽ bị đen rìa ngoài tạo thành ảnh hình tròn. Phải crop vuông ảnh lại ở hậu kỳ.
3. Chụp ngược ống kính: Cách này là dùng một vòng chuyển đổi (reverse ring) có một đầu gắn vào thân máy ảnh, đầu kia gắn vào phía trước của ống kính. Nguyên tắc cũng gần như cách thứ 2 đó là phóng to ảnh rồi đưa vào mặt film (hay sensor). Chất lượng ảnh nói chung không tốt. Hay bị mờ và tối ở 4 góc. OK phải có vòng đóng khẩu độ bên ngoài mới đóng được khẩu độ khi chụp.
Việc lấy nét cũng rất khó, chúng ta chỉ nên tịnh tiến máy vào chủ thể cho đến khi thấy ảnh rõ nhất. Ảnh thường sẽ rõ nhất ở tâm ảnh sau đó thì mờ ra phía bốn góc. Ảnh chụp xong phải crop lại cho cân đối.
Chụp đảo đầu OK hay chụp ngược ống kính thường chỉ giúp phóng đại ảnh. Việc bố cục sẽ diễn ra ở hậu kỳ là chủ yếu. Hai phương pháp 2 và 3 tuy không phải mất tiền nhiều để đâu tư nhưng rất tốn công khi chụp. Đòi hỏi người chụp phải hết sức kiên nhẫn. Chúng sẽ không thích hợp với những bạn mới tập chụp macro, dễ làm nản chí “Anh Hùng”.
Qua những tấm ảnh của các chuyên gia mà tôi đã từng được xem, tôi nhận thấy ảnh macro đẹp dựa trên những tiêu chí như sau: Ánh sáng, bố cục, màu sắc và quan trọng nhất theo tôi đó là việc khống chế DOF một cách hiệu quả. Hai cách chụp 2 và 3 nêu trên rất khó cho chúng ta kiểm soát DOF. Phải thật kinh nghiệm mới có thể có DOF khi dùng OK đảo ngược hay chụp ngược.
4. Dùng ống nối – TUBE: Ống tube chỉ là một ống nối rỗng. Một đầu gắn vào thân máy, đầu kia gắn vào đuôi ống kính. Nôm na ống Tube sẽ nằm giữa thân máy và OK. Nguyên tắc của ống nối là đưa hệ thống thấu kính của Ok ra xa bề mặt film, khiến ảnh của chủ thể to hơn. Phương pháp này cho phép đưa máy vào gần chủ thể (gần hơn khoảng cách cực cận của OK) điều này giúp ảnh được phóng đại trên bề mặt film nhưng cũng khiến cho khoảng rõ cực xa (vô cực) bị kéo lại gần tức là chúng ta không thể lấy nét khi máy nằm xa chủ thể.
Chất lượng ảnh xem như là đạt cao nhất so với các cách phóng đại khác vì ánh sáng từ chủ thể vào trực tiếp lên bề mặt film mà không qua một thấu kính nào khác. Ảnh sẽ chất lượng như dùng OK đó, chỉ có khác là DOF sẽ mỏng hơn.
Trong các cách phóng đại có trang thiết bị gắn thêm vào OK thì đều bị mất khẩu khi đo sáng. VớI ống tube, khẩu bị mất sẽ tỉ lệ thuận với chiều dài của ống tube. Thí dụ ống Tube 25mm sẽ bị mất 2 khẩu khi đo sáng. Người ta đã tính rằng nếu chiều dài của ống tube bằng với tiêu cự OK (focal length) thì ảnh sẽ có tỉ lệ thực tức là 1:1 hoàn toàn mang tính chất ảnh macro.
Nếu có thể chọn, chúng tôi khuyên các bạn chọn một OK có tiêu cự khá dài, cộng với tube dài chúng ta sẽ có thể có những sản phẩm đẹp hơn. Với OK dài (tele) chủ thể sẽ hút về ảnh, phông sẽ mờ đẹp và chúng ta có đủ khoảng cách cực cận (khi mà gắn tube ) dễ thao tác khi chụp hơn. Thí dụ như khi tôi gắn Tube 25mm vào ống 18-55mm, chỉ có thể lấy nét dễ dàng khi để ở tiêu cự từ 30mm đến 55mm; ở 18mm chủ thể gần như chạm vào mặt trước của thấu kính.
Với loại Tube cùng nhãn hiệu với thân máy sử dụng (hay là loại FOR cho đúng thân máy) thì máy có khả năng đo sáng và tự động lấy nét khi chụp (lưu ý là máy chỉ có khả năng lấy nét tự động khi khẩu dưới 5.6 – có nghĩa là với loại OK có độ mở 2.8, khi gắn các loại Tube dưới 25mm chỉ mất dưới 2 khẩu, máy có khả năng lấy nét tự động; trên nữa thì máy không AF được). Các loại Tube này có mạch nối tiếp liên lạc giữa thân máy và OK. Tuy nhiên với máy Canon, khi gắn tube khác nhãn/ không có mạch tiếp giữa thân máy và OK máy vẫn có khả năng đo sáng.
Sử dụng ống tube.Như các bạn đã biết. Khi gắn ống tube là chúng ta đưa hệ thống thấu kính ra xa mặt film khiến ảnh được phóng to ra hơn. Điều này cũng kéo theo việc đưa lỗ hở của khẩu độ ra xa mặt film – việc này làm ảnh sẽ bị mờ đi.
Không phải ống kính nào cũng có thể sử dụng chung với tube. Có nhiều ống khi gắn tube sẽ cho ảnh bị cong, méo ở bốn góc, mất nét rìa…Thường thì chỉ nên sử dụng cho tiêu cự 50mm trở lên.
Một cách đẩy hệ thống thấu kính ra xa mặt film là dùng Extension Bellow:
5. Dùng Tele Converter: Một cách khác để phóng ảnh là sử dụng Tele Converter. TC là một hệ thống thấu kính cho phép tặng tiêu cự của ống kính lên. Độ phóng đại tính trên số lần phóng đại của TC: 1.4x; 1.7x; 2x; 3x … Có nghĩa là nếu dùng ống 105mm với TC 2x, ta có một hệ thống OK 210mm.
Giống như Tube, một đầu TC cũng gắn vào thân máy, đầu kia gắn vào OK. Dùng TC cũng bị mất khẩu như TUBE. Ở TC 1.4x và 1.7x (1.7 chỉ có ở Nikon) chúng ta bị mất 1 khẩu và ở TC 2x chúng ta mất 2 khẩu.
Ảnh chụp với OK và TC sẽ bị mất chi tiết và mờ hơn là dùng OK và Tube vì ánh sáng phải đi qua hệ thống thấu kính của T
C. Chất lượng ảnh cũng còn tuỳ thuộc vào chất lượng và sự tương thích của TC. Dĩ nhiên là đồng bộ OK và TC là tối ưu.
Với loại máy P&S cũng có TC. Nhưng để gắn TC, phải dùng thêm một adapter nối nữa. TC này nằm ngoài OK và cũng có tác dụng phóng ảnh.
Tác giả bài viết: 






1 nhận xét:

  1. Lucky Club Casino Site | LuckyClub Live
    Welcome to Lucky Club Casino. Play with a huge selection of games and huge bonuses at the best online casino! Rating: 5 · ‎1 vote · ‎Free · ‎Game luckyclub

    Trả lờiXóa